I. Đối với Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất được xác lập trong
thời điểm từ ngày 01/7/1980 đến trước ngày 15/10/1993 được Tòa án công nhận nếu:
Bên nhận chuyển nhượng quyền sử dụng
đất đã được Ủy ban nhân dân cấp có thẩm quyền cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất theo quy định của pháp luật về đất đai;
Trường hợp đất chưa được cấp giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất, nhưng bên nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất đã
hoàn tất thủ tục xin cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất tại Ủy ban nhân dân
có thẩm quyền, Ủy ban nhân dân đã cho phép việc chuyển nhượng;
Bên nhận chuyển nhượng quyền sử dụng
đất đã xây nhà ở, công trình kiến trúc, trồng cây lâu năm, đầu tư sản xuất,
kinh doanh không vi phạm quy định về quy hoạch và bên chuyển nhượng cũng không
phản đối khi bên nhận chuyển quyền sử dụng đất xây nhà ở, công trình kiến trúc,
trồng cây lâu năm, đầu tư sản xuất, kinh doanh trên đất đó.
II.
Đối với Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất được xác lập sau ngày
15/10/1993:
Đối với hợp đồng được giao kết trước
ngày 01/7/2004 chưa được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nhưng đã có một
trong các loại giấy tờ về quyền sử dụng đất được quy định tại các khoản 1, 2 và
5 Điều 50 của Luật Đất đai năm 2003, mà có phát sinh tranh chấp, nếu từ ngày
01/7/2004 mới có yêu cầu Toà án giải quyết, thì không coi là hợp đồng vô hiệu
do vi phạm điều kiện này.
Đối với hợp đồng chuyển nhượng quyền
sử dụng đất mà tại thời điểm giao kết chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất, chưa được công chứng, chứng thực, nhưng sau đó đã được Ủy ban nhân dân cấp
có thẩm quyền cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất hoặc một trong các loại giấy
tờ quy định tại các khoản 1, 2 và 5 Điều 50 của Luật Đất đai năm 2003 mà có
phát sinh tranh chấp và từ ngày 01/7/2004 mới có yêu cầu Toà án giải quyết, thì
không coi là hợp đồng vô hiệu do vi phạm về điều kiện này.
Đối với hợp đồng chuyển nhượng quyền
sử dụng đất mà tại thời điểm giao kết chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất, chưa được công chứng, chứng thực, nếu sau khi thực hiện hợp đồng chuyển
nhượng, bên nhận chuyển nhượng đã trồng cây lâu năm, đã làm nhà kiên cố… và bên
chuyển nhượng không phản đối và cũng không bị cơ quan nhà nước có thẩm quyền xử
lý vi phạm hành chính theo các quy định của Nhà nước về xử lý vi phạm hành
chính trong lĩnh vực đất đai, thì Toà án công nhận hợp đồng. Nếu bên nhận chuyển
nhượng chỉ làm nhà trên một phần đất, thì Toà án công nhận phần hợp đồng chuyển
nhượng quyền sử dụng phần đất có nhà ở và hủy phần hợp đồng đối với diện tích đất
còn lại, buộc bên nhận chuyển nhượng giao trả phần đất đó cho bên chuyển nhượng,
trừ trường hợp việc giao trả không bảo đảm mục đích sử dụng cho cả hai bên giao
kết hợp đồng, đồng thời buộc các bên thanh toán cho nhau phần chênh lệch.
Ngoài ra, căn cứ Điều 129 Bộ luật
dân sự 2015 về các trường hợp Hợp đồng vi phạm về hình thức nhưng vẫn được công
nhận nếu:
Giao dịch dân sự đã được xác lập
theo quy định phải bằng văn bản nhưng văn bản không đúng quy định của luật mà một
bên hoặc các bên đã thực hiện ít nhất hai phần ba nghĩa vụ trong giao dịch thì
theo yêu cầu của một bên hoặc các bên, Tòa án ra quyết định công nhận hiệu lực
của giao dịch đó.
Giao dịch dân sự đã được xác lập bằng
văn bản nhưng vi phạm quy định bắt buộc về công chứng, chứng thực mà một bên hoặc
các bên đã thực hiện ít nhất hai phần ba nghĩa vụ trong giao dịch thì theo yêu
cầu của một bên hoặc các bên, Tòa án ra quyết định công nhận hiệu lực của giao
dịch đó. Trong trường hợp này, các bên không phải thực hiện việc công chứng, chứng
thực.
Hotline: Luật Lâm Vinh - 096868.2478